Chương 8
“Uhm… Đương nhiên không phải bản đồ bình thường…” Tần Qua ung dung lấy ra một cây bút, khoanh mấy vòng tròn lên tấm ảnh, “Quỷ Linh, cậu có nhận ra cái này hay không?”
Chung Quỷ Linh chăm chú quan sát, bỗng dấy lên cảm giác vô cùng quen thuộc, nhưng nhất thời không nhớ ra đó là gì, “Cái này… Tần tiên sinh, thứ cho vãn bối kiến thức hạn hẹp, ngài có thể gợi ý đôi chút hay không?”
“Đây là Tiểu Thất Quan của phái Mao Sơn!” Tần Qua nói, “Dùng ‘thông mị’ (tức đồng tiền) bọc ‘dương huyết’ * để bố trí, cũng gọi là Thất Quan Trận, cậu chưa từng nghe nói sao?”
*Dương huyết: máu mang tính dương, thường lấy từ động vật thuần dương như chó đen, gà trống, dê…
“À, nhớ ra rồi!” Chung Quỷ Linh giật mình tỉnh ngộ, năm đó sư phụ Lục Thanh Dương từng nhắc đến trận pháp này. Đây là bí truyền của phái Mao Sơn, lợi dụng đồng tiền chứa dương huyết, tạo ra một mạng lưới tuần hoàn dương khí nhỏ, có phần tương tự với “Thất Quan” trong tự nhiên hay “Thất Chương” mà Thanh Vy Giáo nói đến. Tuy nhiên cũng có khác biệt rất lớn: trong “Thất Chương” tự nhiên, dương khí có đường ra đường vào -> ác quỷ oán nghiệt có thể di chuyển bên trong và thoát ra ngoài. Còn “Tiểu Thất Quan” của phái Mao Sơn chỉ có đường vào mà không có đường ra, với oán nghiệt chẳng khác gì ngõ cụt, một khi bị vây khốn khó có thể thoát thân.
Trong giới Đạo thuật, trận pháp này được coi là phát minh mang tính bước ngoặt, có điều không phải tùy tiện đặt mấy đồng tiền là có thể khiến dương khí tuần hoàn. Muốn thành công, cần phải tuân theo yêu cầu về thời gian đúc tiền, trọng lượng, lượng dương huyết bao bọc hay thứ tự sắp xếp đồng tiền. Đây là sự đúc kết kinh nghiệm của bao thế hệ phái Mao Sơn, cho đến ngày nay đã trở thành “môn học cơ bản” trong Đạo thuật. Dùng loại tiền nào, bọc bao nhiêu dương huyết, bày như thế nào… đều có quy chuẩn, cho dù là tông sư hay học đồ, cách bày “Tiểu Thất Quan” đều có sự tương đồng, đặc biệt là vị trí sắp xếp đồng tiền.
“Cái này tôi biết, sư phụ từng nói người của Thanh Vy Giáo cũng sử dụng, nhưng tại tôi và sư đệ thích đối đầu trực diện nên không dùng… Cái này thì liên quan gì đến miếng ngọc kia chứ?” Chung Quỷ Linh cầm bức ảnh trong tay, lật qua lật lại vẫn không thấy có gì đặc biệt.
“Quan hệ lớn nhất giữa Tiểu Thất Quan với miếng ngọc, chính là không có quan hệ!” Tần Qua khẽ mỉm cười, “Trương chưởng môn phái Mao Sơn đã phân tích trận pháp khắc trên miếng ngọc, phát hiện đó thật sự là một ‘Thất Quan’ có hệ thống âm dương mạch lạc và lối ra vào dương khí hoàn chỉnh, tuyệt đối không phải ‘Tiểu Thất Quan’ do người tạo ra!”
“Mạch lạc hoàn chỉnh?” Chung Quỷ Linh giật mình kinh ngạc, thứ gọi là Thất Quan do thiên nhiên hình thành, nhìn không thấy sờ không được, có thể tìm nhưng không cách nào tự tạo. Trận pháp “Tiểu Thất Quan” bắt nguồn từ phái Mao Sơn, sau đó được các giáo phái đời đời tương truyền, trải qua hàng chục thế hệ không ngừng cải thiện, đến giờ vẫn chưa dám nói là “mạch lạc hoàn chỉnh”. Cho dù Đường Hải Quỳnh tài giỏi thế nào, cũng khó có thể tạo ra Thất Quan dựa vào trí tưởng tượng, “Tần tiên sinh, ngài muốn nói ‘Thất Quan’ trên miếng ngọc này đã được Đường Hải Quỳnh sao chép từ đâu đó?”
“Không tồi!” Tần Qua mỉm cười gật đầu, “Theo tôi được biết, Thất Quan tương tự như vân tay hay DNA của con người, sơ đồ hướng đi của Thất Quan tại bất kỳ thành thị hay núi sâu rừng hoang nào trên thế giới đều là duy nhất. Nếu Đường Hải Quỳnh sao chép Thất Quan nơi nào đó rồi khắc vào miếng ngọc, vậy chỉ cần tìm được địa phương này, sẽ có thể phát hiện ra bí mật!”
“Này…” Chung Quỷ Linh chưa kịp vui mừng, đã lập tức tỉnh mộng, “Tần tiên sinh, điều này gần như không thể thực hiện… bởi không thể cầm la bàn đi khắp Đại Lục địa tìm kiếm chứ? Biết địa phương tìm Thất Quan thì đơn giản, nhưng biết Thất Quan tìm địa phương… khác gì mò kim đáy biển!”
“Nói thì nói vậy, nhưng tôi nghĩ Đường Phi dùng Thất Quan làm manh mối để lại cho Ngụy cô, nhất định có dụng ý riêng!” Tần Qua chậm rãi rút một tờ giấy bên dưới bàn trà, mặt trên có vẻ là bản vẽ trận pháp, nhưng chi tiết ít hơn nhiều so với bức ảnh trên tay Chung Quỷ Linh. “Đường Phi đúng là một nhân tài! Tới thời cận đại còn có được tay nghề như vậy…” Chỉ thấy Tần Qua xếp mấy tờ giấy song song lên mặt bàn.
“Đây là cái gì?” Chung Quỷ Linh không khỏi kinh ngạc.
“Miếng ngọc được chia thành 2 tầng: trên cùng chạm ‘Thất Quan’, bên dưới khắc trận pháp!” Tần Qua nói, “Theo phân tích của Trương chưởng môn phái Mao Sơn, cái này hẳn là ‘Tử Ngọ Trận’ - cấm trận của Chính Nhất Giáo, cậu biết nó có tác dụng gì không?”
Chung Quỷ Linh cùng Ngụy Tiếu Đồng đồng loạt lắc đầu.
“Thế có biết điển cố ‘Khiên Tử Tục Độc’ hay không?” Tần Qua liếc nhìn Chung Quỷ Linh.
“Khiên Tử Tục Độc!?” Chung Quỷ Linh trợn to mắt, “Ngài muốn nói… thực sự có chuyện này sao!? Tôi còn tưởng sư phụ bịa ra để dỗ trẻ con chứ…”
Dân gian truyền rằng, vào năm Cảnh Thái thời nhà Minh, tại Vệ Huy - Hà Nam có một nhà họ Lư giàu có, ruộng tốt ngàn khoảnh, đương gia gọi là Lư Kính. Nguyện vọng lớn nhất cả đời ông ta chính là có một đứa con nối dõi tông đường, lần lượt cưới bốn bà vợ, sinh cả đống con gái nhưng mãi vẫn không ra quý tử.
Về sau Lư Kính đành từ bỏ, tục ngữ nói: “một con rể bằng nửa con trai”, nhà đông con gái đương nhiên con rể cũng nhiều, tính bình quân theo công thức trên thì khá lời. Vì thế, Lư Kính liền lập gia quy, chỉ kiếm người ở rể, hơn nữa con sinh ra bất kể là nam hay nữ, đều phải theo họ Lư.
Gia quy này trông thì có lợi với Lư gia - giúp bọn họ duy trì nòi giống, nhưng thực tế lại hạ thấp chất lượng con rể. Thời xưa, người ta chú trọng “Người nghèo chí không nghèo”, đàn ông ở rể, con sinh lại mang họ mẹ — người có lòng tự trọng tuyệt đối không đồng ý. Phàm những kẻ bất chấp dư luận ở rể cho nhà họ Lư, không phải lưu manh vô lại thì cũng là tham lam hám của. Họ Lư có tổng cộng tám cô con gái, thời điểm đón chàng rể thứ 7 vào nhà, Lư Kính bắt đầu cảm thấy hối hận. 7 tên này chẳng những ăn không ngồi rồi mà còn suốt ngày gây sự với Lư Kính, ý đồ làm tức chết đương gia, sau đó chia nhau gia sản. Tuy Lư Kính căm giận nhưng không dám động vào chúng, dù sao trên danh nghĩa cũng là chồng của con gái mình, nếu thật sự làm căng, chúng sẵn sàng bỏ lại một tờ “giấy bỏ vợ” rồi nghênh ngang rời đi — đến lúc đó mất cả chì lẫn chài.
Cũng vì vậy, khi cô con gái thứ 8 trưởng thành, Lư Kính liền phá lệ gả khuê nữ cho một tú tài họ Vương, tuy gia cảnh không giàu có, nhưng dù sao cũng là người tốt, tri thư đạt lý, văn chương không tồi, coi như có chỗ gửi gắm.
Sau khi con gái thứ 8 về nhà chồng, tình cảnh nhà Lư Kính càng trở nên tồi tệ. Trước kia, tuy đám con rể luôn tìm cách làm cha vợ tức chết, nhưng lúc cần thiết mấy cô con gái vẫn đứng về phía ông ta. Thế nhưng kể từ khi Bát tiểu thư gả ra ngoài, bảy cô con gái còn lại cảm thấy cha mình bất công, vì thế liên kết với chồng gây sóng gió. Không quá hai năm, Lư Kính đột ngột qua đời vì “bệnh tim”, đám con rể chưa kịp vui mừng đã bị dội gáo nước lạnh — thì ra Lư Kính đã sớm đề phòng lũ sói mắt trắng, sau khi ông ta chết đi, chẳng ai biết khế đất giấu ở đâu.
Đám con rể lật tung Lư trạch vẫn không tìm ra, trong lúc tức giận liền vơ vét hết vật phẩm có giá trị trong nhà, để lại hưu thư rồi mỗi người một ngả. Bảy cô con gái trở thành phụ nữ bị ruồng bỏ, gia cảnh ngày càng xuống dốc. Tin này truyền ra, một số du côn ác bá trong vùng bắt đầu nhòm ngó đến ruộng đất nhà họ Lư. Chẳng bao lâu sau, gia sản của Lư gia bị chiếm đoạt gần hết. Mới đầu, mấy cô con gái còn tìm nha môn giải quyết, đáng tiếc vì không có khế đất, cho nên quan phủ dù biết đó là ruộng đất nhà họ Lư, cũng không tiện nhúng tay can thiệp.
Vài năm sau, bỗng nhiên có một cậu bé ăn mày chừng bảy tám tuổi đến Lư phủ, nghe giọng nói không phải người địa phương. Con gái cả nhà họ Lư thấy vậy, tính cho nó chút gì ăn rồi đuổi đi, ai ngờ cậu bé ăn mày vừa thấy cô gái khuôn mặt già nua, quần áo rách rưới liền oà lên khóc, miệng không ngừng nói: “Cha xin lỗi các con”. Mới đầu, cô ta còn cho rằng thằng nhóc này bị điên, ai ngờ cậu bé ăn mày đọc vanh vách tên của mấy cô con gái nhà họ Lư, thậm chí sinh thần bát tự cũng biết rõ.
Sau này, cậu bé ăn mày này dễ dàng tìm ra khế đất trong Lư phủ, mấy chị em nhà họ Lư mới thoát cảnh đói nghèo.
Người xưa đều mê tín, cho rằng người chết đi xuống âm tào địa phủ, đều phải uống canh Mạnh bà, sau đó mất đi ký ức. Tuy nhiên, theo lý luận trong Đạo thuật, việc con người mất trí nhớ có liên quan mật thiết đến dòng chảy Âm Dương tại nơi đó. Nếu giải thích theo khoa học thì có thể hiểu rằng: hồn phách của con người là một dạng sóng điện có bước sóng nhất định, được tạo ra bởi dòng điện sinh học, còn ký ức từ kiếp trước chính là một phần trong đoạn sóng não điện này.
Hồn phách đầu thai, thực chất chính là quá trình âm khí hồn phách mang theo chuyển từ mạnh sang yếu, cuối cùng đạt ngưỡng cân bằng với dương khí yếu ớt trên người thai nhi, tạo thành sức hút Âm Dương, từ đó hòa lại làm một. Hồn phách muốn giảm bớt âm khí phải di chuyển qua “Thất Chương” — phái Mao Sơn gọi là “Thất Quan”. Đạo thuật cho rằng, ký ức kiếp trước của con người sau khi chết sẽ tồn tại dưới dạng âm khí, còn theo khoa học thì là sóng điện sinh học do điện tích âm sinh ra. Ký ức trước khi chết càng nhiều, âm khí sẽ càng nặng — đó cũng là nguyên nhân vì sao những người có nhiều tiếc nuối rất khó đầu thai, bởi sau khi đi qua Thất Chương, nếu âm khí hồn phách mang theo vẫn chưa giảm đến trạng thái cân bằng với dương khí trên người thai nhi, sẽ không thể đầu thai.
Tuy nhiên, bất kỳ lý thuyết nào cũng có trường hợp ngoại lệ, và cậu bé ăn xin chính là một trong số đó. Từ góc độ Đạo thuật, tuy việc cưỡng chế hồn phách mang nặng âm khí đi đầu thai là trái ý trời, nhưng lại hoàn toàn có thể thực hiện. Thế nhưng, nếu tình huống này xuất hiện trong hoàn cảnh tự nhiên thì không thể giải thích, ít nhất là với trình độ phát triển Đạo thuật thời điểm đó.
Tiên sư Bùi Hoài Lĩnh của Chính Nhất Giáo là người đầu tiên trong lịch sử Đạo thuật nghiên cứu hiện tượng này, vì thế câu chuyện về cậu bé ăn mày này cũng khiến ông ta chú ý…
Còn tiếp...
Nhận xét
Đăng nhận xét